Robert Hutchings Goddard (05/10/1882 – 10/08/1945) sinh ra tại Worcester bang Massachusetts, đông bắc Hoa Kỳ. Khi còn thiếu niên, ông rất thích mày mò, tìm hiểu về khoa học thường thức. Năm 16 tuổi, Goddard bắt đầu yêu thích khám phá không gian sau khi đọc tác phẩm « Cuộc chiến giữa các thế giới » (The War of the Worlds) của H.G Wells. Năm 17 tuổi, trong một lần thả trí tưởng tượng về việc chế tạo một tàu vũ trụ chinh phục Sao Hoả, Goddard quyết định sẽ theo đuổi công việc chế tạo các thiết bị thám hiểm không gian.
Robert Hutchings Goddard (05/10/1882 – 10/08/1945)
Vì lý do sức khoẻ, Goddard bi chậm hơn các bạn đồng lứa 2 năm học. Ông đã giành nhiều thời gian tự học bằng cách mượn sách ở các thư viện cũng như của một số nhà vật lý. Mãi đến năm 18 tuổi, Goddard mới bắt đầu học trung học phổ thông. Năm 1904, Goddard thay mặt lớp phát biểu trong lễ tốt nghiệp. Ông đã nói một câu rất nổi tiếng « It is difficult to say what is impossible, for the dream of yesterday is the hope of today and the reality of tomorrow » (Thật là khó để có thể kết luận cái gì là không thể, vì mơ ước của ngày hôm qua chính là hy vọng của ngày hôm nay và trở thành hiện thực của ngày mai).
Sau khi tốt nghiệp, Goddard tiếp tục qúa trình học tập tại học viện Bách Khoa Worcester. Khả năng cũng như động lực học tập của ông đã được trưởng khoa Vật lý của trường để ý. Ông được nhận vào làm trợ lý tại phòng thí nghiệm cũng như trợ giảng. Sau khi tốt nghiệp học viện Worcester năm 1908, Goddard tiếp tục học thạc sĩ và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ năm 1911 tại đại học Clark. Từ năm 1912, ông làm nghiên cứu viên tại đại học Princeton.
Ngay từ khi còn là sinh viên đại học, Goddard đã có công trình tìm hiểu về kỹ thuật ổn định các máy bay. Năm 1909, ông bắt đầu có những nghiên cứu về tên lửa đẩy sử dụng nhiên liệu lỏng. Goddard tập trung vào phương pháp nâng cao hiệu suất của động cơ tên lửa, cố gắng tìm ra cách tiếp cận mới thay cho cách truyền thống sử dụng nhiên liệu rắn. Ông đề xuất ý tưởng sử dụng hỗn hợp hydro và oxy ở dạng lỏng với dự đoán hiệu suất của động cơ sẽ đạt được vào khoảng 50%.
Năm 1913, Goddard bị bệnh lao rất nặng và ông phải dừng công việc ở Princeton, trở về Worcester chữa bệnh. Trong giai đoạn an dưỡng ở quê nhà, Goddard đã bắt đầu triển khai và thực hiện những ý tưởng về tên lửa đẩy. Năm 1914, ông đã có 2 bằng phát minh về thiết kế tên lửa nhiều tầng và nhiên liệu lỏng sử dụng trong tên lửa. Hai bằng phát minh của Goddard đánh dấu những cột mốc quan trọng trong giai đoạn đầu của hàng không vũ trụ.
Mùa thu năm 1914, sức khoẻ của Goddard đã phục hồi dần và ông tiếp tục đi dạy bán thời gian tại đại học Clark. Cho đến năm 1916, chi phí cho các thí nghiệm về tên lửa đã vượt quá khả năng của Goddard và ông phải tìm các nguồn tài trợ. Học viện Smithsonian đã tài trợ cho ông tổng cộng 5000$ trong 5 năm và học viện Bách Khoa Worcester cho phép ông sử dụng phòng thí nghiệm về từ trường. Trong những năm 1916 – 1917, Goddard bắt đầu thực hiện các thí nghiệm với động cơ đẩy sử dụng luồng ion (ion thruster) với suy nghĩ động cơ dạng này có thể hoạt động trong môi trường gần như là chân không tại những động cao lớn. Bên cạnh đó, Goddard cũng đã có những kết quả đầu tiên trong việc ứng dụng công nghệ tên lửa vào lĩnh vực quân sự. Ông đã chế tạo bản thử nghiệm của tên lửa vác vai đầu tiên. Tuy nhiên, do phát minh này ra đời vào những ngày cuối của Thế chiến thứ nhất nên nó chưa được ứng dụng rộng rãi và Goddard cũng không tiếp tục đi sâu vào lĩnh vực này nữa. Sau này, phát minh của Goddard tiếp tục được những người khác phát triển trở thành súng chống tăng cá nhân (bazooka) sử dụng trong Thế chiến thứ hai.
Năm 1919, viện Smithsonian công bố cuốn sách tuyển tập các công trình của Goddard dưới tiêu đề : « Method of Reaching Extreme Altitudes » (Phương pháp tiến hành việc bay lên các độ cao cực lớn). Cuốn sách đã trình bày lý thuyết toán của Goddard về các động cơ tên lửa, các thực nghiệm do ông đã tiến hành với tên lửa nhiên liệu rắn, các khả năng ứng dụng của tên lửa trong việc nghiên cứu Trái Đất cũng như khoảng không gian vũ trụ. Tác phẩm này đã khẳng định Goddard là một trong 3 người khai sinh ra hàng không vũ trụ (Tsiolkovsky, Oberth, Goddard)
Cuốn sách đã nhận được sự quan tâm rộng rãi của dư luận, tuy nhiên, tiếc rằng trong giai đoạn đầu, đó lại là những lời bình phẩm theo hướng tiêu cực. Mặc dù việc chinh phục Mặt Trăng chỉ là một phần rất nhỏ và được Goddard trình bày dưới dạng ý tưởng và các đề xuất, nhưng một số tờ báo đã tập trung chỉ trích, chế diễu nó. Điều này đã dẫn đến việc dư luận xã hội coi toàn bộ công trình của Goddard là sai lầm hoặc mơ hồ, thiếu sức thuyết phục. Hậu quả là sau đó Goddard đã trở nên rất khép kín, ông thường tiến hành các thí nghiệm một mình hoặc chỉ trình bày các quan điểm, ý tưởng trong 1 nhóm nhỏ các đồng nghiệp.
Trong một bài viết gửi viện Smithsonian tháng 3 năm 1920, Goddard đã thảo luận về các vấn đề:
+ Chụp ảnh Mặt Trăng và các hành tinh bằng tàu thám hiểm tự động kiểu bay qua (fly-by)
+ Gửi thông điệp đến các nên văn minh khác bằng các bản kim loại (gắn trên tàu không gian),
+ Sử dụng năng lượng mặt trời trong không gian
+ Chế tạo động cơ phản lực dựa trên luồng ion.
+ Thiết kế khiên chắn nhiệt (heat shield)
Có thể thấy rằng, ngày nay, những ý tưởng trên của Goddard đều đã trở thành hiện thực. Tiếc rằng vào thời điểm đó, chúng đã không được công bố rộng rãi ra cộng đồng.
Từ tháng 9 năm 1921, Goddard bắt đầu các thí nghiệm với động cơ tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng. Ngày 16/03/1926, ông đã phóng thành công tên lửa đầu tiên tại Auburn, Massachusetts. Mặc dù tên lửa chỉ bay cao khoảng 7 mét trong vòng 2.5 giây nhưng Goddard đã chứng minh được tính khả thi của động cơ phản lực sử dụng nhiên liệu lỏng. Goddard tiếp tục tiến hành các nghiên cứu, cải tiến và thực nghiệm với những mẫu tên lửa tiếp theo. Năm 1929, báo chí và dư luận bắt đầu lại quan tâm đến công việc của Goddard. Đặc biệt Goddard đã được hỗ trợ rất lớn từ Charles Lingberh, một người tiên phong trong việc chế tạo máy bay và quảng bá ngành hàng không. Với sự vận động của Lingberh, Goddard đã nhận được 1 khoản tài trợ khá lớn cho các nghiên cứu của mình.
Goddard bên bệ phóng quả tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng đầu tiên
Năm 1930, Goddard đến Roswell, bang New Mexico để tiếp tục công việc của mình, tránh xa sự tò mò cũng như dư luận xã hội. Thành công xen lẫn với thất bại, các tên lửa của Goddard ngày càng hoàn thiện hơn. Năm 1935, ông đã phóng thành công tên lửa kiểu A-5 lên tới độ cao 1.46 km, vượt qua được tốc độ âm thanh. Năm 1937, tên lửa L-13 của Goddard đã bay lên độ cao 2.7 km. Tuy nhiên, đây cũng là độ cao lớn nhất mà các tên lửa của Goddard đạt được, các nỗ lực về sau của ông về mặt kích thước hoặc cải tiến thiết kế đều không thu được thành công.
Goddard đã trình bày các kết quả của mình với quân đội Hoa Kỳ, tuy nhiên ông không thu được sự quan tâm đúng mực vì giới quân sự trong nước vẫn chưa để ý đến các ứng dụng của tên lửa. Tuy nhiên, người Đức lại để ý đến các công trình của ông thông qua nhiều kênh thông tin, cả chính thức (báo chí, …) lẫn gián điệp. Đây có thể là những nguồn thông tin tham khảo, hoặc cung cấp ý tưởng cho việc phát triển các thế hệ tên lửa V-1, V-2 của Đức quốc xã sau này. Năm 1963, Wernher von Braun đã viết : « Các tên lửa của Goddard, mặc dù còn rất thô sơ nếu so với những tiêu chuẩn hiện đại, nhưng đó thật sự là những bước tiến rực rỡ, trong đó ta có thể thấy rất nhiều đặc điểm của các tên lửa, tàu vũ trụ ngày nay ».
Năm 1945, Goddard qua đời vì bệnh ung thư cuống họng. Cùng với Konstantin Tsiolkovsky của Liên Xô và Hermann J. Oberth của Đức, R. H. Goddard được người đời sau vinh danh là những người khai sinh ra ngành hàng không vũ trụ. Tên ông được đặt cho nhiều trường học, công trình trên khắp nước Mỹ. Năm 1959, NASA thành lập trung tâm không gian đầu tiên với tên gọi Goddard Space Flight Center. Tên ông cũng đã được đặt cho một crater trên Mặt Trăng.
Tài liệu tham khảo
[1]Today in Science History, 1999 – 2008. October 5 – Births, Deaths, Events, https://www.todayinsci.com/10/10_05.htm
[2]Wikipedia, 10/2008. Robert H. Goddard, https://en.wikipedia.org/wiki/Robert_H._Goddard
Hero_Zeratul
ttvnol.com