Phần đậm đặc nhất trong hệ thống vành đai của Sao Thổ là Vành đai A và B, chúng được ngăn cách bởi Vùng Cassini (được phát hiện vào năm 1675 bởi Giovanni Domenico Cassini).
Phần đậm đặc nhất trong hệ thống vành đai của Sao Thổ là Vành đai A và B, chúng được ngăn cách bởi Vùng Cassini (được phát hiện vào năm 1675 bởi Giovanni Domenico Cassini). Cùng với đó là Vành đai C, nó được phát hiện vào năm 1850 và có tính chất tương tự Vùng Cassini, những vùng này bao gòm các vành đai chính (main ring).
Vành Đai Chính đậm đặc hơn và chứa những phần tử lớn hơn các vành đai bụi (dusty ring) mỏng. Các vành đai mới đây bao gồm Vành đai D, hướng vào bên trong đến những đám mây của Sao Thổ, Vành đai G và E và các vành đai khác nằm ngoài vành đai chính. Từ “bụi” dùng để thể hiện những vành đai này được tạo thành từ các phần tử nhỏ (thường là một micromet); thành phần hóa học của chúng tương tự các vành đai chính, hầu hết là băng.
Vành đai F mỏng, chỉ cách rìa Vành đai A một đoạn, rất khó để xếp loại; một phần của nó rất đặc nhưng nó cũng chứa một lượng lớn các phần tử cỡ hạt bụi.
Hình chụp màu sắc thực của vành đai D, C, B, A của Sao Thổ bằng ống kính góc hẹp của tàu Cassini vào 9/5/2007.
Các khu vực chính của các vành đai
Tên(3) | Khoảng cách đến Sao Thổ (tính từ tâm, km)(4) |
Chiều rộng (km)(4) | Đặt tên theo |
Vành đai D | 66 900–74 510 | 7 500 | |
Vành đai C | 74 658–92 000 | 17 500 | |
Vành đai B | 92 000–117 580 | 25 500 | |
Vùng Cassini | 117 580–122 170 | 4 700 | Giovanni Cassini |
Vành đai A | 122 170–136 775 | 14 600 | |
Vùng Roche | 36 775–139 380 | 2 600 | Édouard Roche |
Vành đai F | 140 180 (1) | 30–500 | |
Vành đai Janus/Epimetheus (2) |
149 000–154 000 | 5 000 | Janus và Epimetheus |
Vành đai G | 170 000–175 000 | 5 000 | |
Cung vành đai Methone (2) |
194 230 | ? | Methone |
Cung vành đai Anthe (2) |
197 665 | ? | Anthe |
Vành đai Pallene (2) | 211 000–213 500 | 2 500 | Pallene |
Vành đai E | 181 000–483 000 | 302 000 |
(Còn nữa…)
Trịnh Khắc duy – PAC
Bình luận