Cetus là một con quái vật biển trong thần thoại Hy Lạp về Tiên Nữ Andromeda . Người Hy Lạp cho rằng, công chúa Tiên Nữ đã phải hi sinh bản thân mình cho con quái vật như một hình phạt cho tính khoe khoang của Tiên hậu Cassiopeia – mẫu hậu của nàng. Chòm sao Cetus nằm trong vùng “Thiên Hải”, kế bên một số chòm sao khác đều có mối liên kết với nước như: Eridanus (Ba Giang – sông), Aquarius (Bảo Bình – người mang nước), Pisces (Song Ngư – con cá), vv. Cetus được Ptolemy – nhà thiên văn học người Hy Lạp phát hiện và ghi chép lại vào thế kỷ thứ 2.

Nằm trên thiên cầu Bắc – Chòm sao Cetus – hay còn được gọi là Kình Ngư (mang hình ảnh cá voi), được biết đến như một trong những chòm sao lớn nhất trên bầu trời.

Cetus chứa thiên thể như thiên hà xoắn ốc Messier 77 và một số ngôi sao phổ biến như: Deneb Kaitos (Beta Ceti), Menkar (Alpha Ceti), Tau Ceti và sao biến đổi Mira (Omicron Ceti).

THÔNG TIN, VỊ TRÍ & BẢN ĐỒ

Cetus có diện tích 1231 độ vuông, là chòm sao lớn thứ tư trên bầu trời trong danh sách các chòm sao có diện tích. Nó nằm ở góc phần tư đầu tiên của Nam bán cầu (SQ1) và có thể được nhìn thấy trong khoảng 70 ° vĩ bắc và 90 ° vĩ nam. Cetus nằm kề các chòm Aries (Bạch Dương), Aquarius (Bảo Bình),  Eridanus (Ba Giang), Fornax (Thiên Lô), Sculptor (Ngọc Phu) và Taurus (Kim Ngưu).

Cetus thuộc nhóm các chòm sao Perseus cùng với Andromeda (Tiên Nữ), Auriga (Ngự Phu), Cassiopeia (Tiên Hậu), Cepheus (Tiên Vương), Lacerta (Hiết Hổ), Pegasus, Perseus (Anh Tiên), và triangulum (Thiên hà tam giác).

Cetus cấu thành bởi 14 ngôi sao (một vài trong số đó có các hành tinh xoay quanh) và chứa một số vật thể Messier, Messier 77 (M77, NGC 1068). Deneb Kaitos (beta Ceti) là ngôi sao sáng nhất trong chòm sao này. Cetus còn là đồng minh của các trận mưa sao băng: Mưa sao băng Cetids tháng mười, Eta Cetids và Omicron Cetids.

Chòm sao Cetus - iZmyh6EynHxuZkxR3e5ycWNFI76XFSYb 37Zyk10QfJfr lZ2g7Bxk2dmy0A RCz3Y3kHJaL2BfFMhhzlzXUylOqdcU 7XjS0LZD5dcgz QDRKr7T9DxQP7mvm2 4NvWASX 8gXq / Thiên văn học Đà Nẵng
Cetus Constellation Map, by IAU and Sky&Telescope magazine
THẦN THOẠI

Cetus là hiện thân của con quái vật biển từ thần thoại Hy Lạp được sai đi giết Tiên Nữ Andromeda. Tiên Hậu Cassiopeia – mẹ của Andromeda luôn khoe rằng Tiên Nữ là người đẹp nhất thế gian. Điều này đã khiến Poseidon (anh trai của thần Dớt và là thần biển cả) cùng nữ thần biển Nereids rất tức giận.

Poseidon đã phái con quái vật Cetus đến trừng phạt vua và hoàng hậu bằng cách tàn phá bờ biển. Vì nhân nhượng, Tiên Hậu Cassiopeia và Tiên Vương Cepheus đã phải hy sinh nàng Tiên Nữ xinh đẹp cho con quái vật này.

Andromeda đã bị xích vào một tảng đá để chờ con quái vật tới, nhưng may mắn thay, khi Cetus đang chuẩn bị nuốt chửng nàng công chúa, dũng sĩ Perseus vừa đi ngang qua, cứu mạng nàng và giết chết Cetus. Sau đó, Perseus và Andromeda đã kết hôn.

Cetus thường được người Hy Lạp miêu tả như là một sinh vật lai. Nó có cẳng chân, quai hàm rất lớn, và một cơ thể có vảy như một con rắn biển khổng lồ. Mặc dù các chòm sao còn được gọi là cá voi, các sinh vật thần thoại được miêu tả lại trông không giống như một con cá voi trong thực tế.

NHỮNG VÌ SAO TRONG CHÒM SAO CETUS

Deneb Kaitos (Diphda) – β Ceti (beta Ceti)

Beta Ceti là ngôi sao sáng nhất trong chòm Cetus, với độ sáng là 2,04 và cách khoảng 96,3 năm ánh sáng so với Mặt trời.

Beta Ceti là một ngôi sao khổng lồ đỏ cam thuộc loại phổ K0 III. Nó đã trải quai các trình tự chính của sự tiến hóa và đang trên con đường trở thành một gã khổng lồ đỏ. Với nhiệt độ bề mặt của 4.800 K, ngôi sao này hơi lạnh hơn so với mặt trời.

Beta Ceti đôi khi được gọi bằng tên truyền thống của nó, Deneb Kaitos và Diphda. Deneb Kaitos có nguồn gốc từ cụm từ tiếng ả Rập Al Dhanab Al Ḳaiṭos Al Janūbīyy, có nghĩa là “đuôi phía nam của Cetus,” và Diphda đến từ aḍ-ḍafda ʿ aṯ-ṯānī, đó là tiếng ả Rập cho “con ếch thứ hai”. (Sao Fomalhaut trong Piscis Austrinus thường được gọi là ếch đầu tiên.)

Menkar (Menkab) – α Ceti (Alpha Ceti)

Alpha Ceti là một ngôi sao khổng lồ màu đỏ lâu đời, độ sáng 2,54, cách khoảng 249 năm ánh sáng xa xôi. Ngôi sao sẽ tách rời những vỏ bọc bên ngoài của nó để tạo thành một tinh vân hành tinh, để lại một tàn dư lùn trắng lớn.

Alpha Ceti còn được biết đến với tên cổ là Menkar, đến từ tiếng ả Rập có nghĩa là “lỗ mũi”. Alpha Ceti thường được sử dụng trong các tác phẩm của khoa học viễn tưởng, đáng chú ý nhất trong bộ phim khoa học viễn tưởng Star Trek: The Original Series. Alpha Ceti V là hành tinh mà trên đó Khan và đoàn thủy thủ của ông bị lưu đày. Trong Star Trek: các thuỷ thủ trên tàu Enterprise đã xây dựng một hành tinh mới cho nhân loại sau khi Xindi phá hủy trái đất.

Mira-ο Ceti (Omicron Ceti)

Omicron Ceti, hay còn được biết đến với tên Mira, là một ngôi sao nhị phân bao gồm một sao khổng lồ đỏ và một sao đôi cách Hệ Mặt trời của chúng ta 420 năm ánh sáng.

Mira A, một ngôi sao khổng lồ đỏ thuộc loại phổ M7 IIIe, là một sao biến dạng dao động phục vụ như một nguyên mẫu cho toàn bộ một lớp biến, các biến số Mira. Có khoảng từ 6.000 và 7.000 ngôi sao được biết đến thuộc nhóm này. Chúng là tất cả những sao khổng lồ đỏ có bề mặt dao động theo cách như vậy để gây ra các biến đổi về độ sáng trong khoảng thời gian từ 80 đến hơn 1.000 ngày.

Chòm sao Cetus - wp6EF4A0zWfCFOZ3QHFx UA3Bltbr2Gt r1cA2R5wZO3plt0iPJBfY6W6Lvx74UeX2vg4fk0CrUqI5wWFhv5JCIOTxlGYeamRbVP5n / Thiên văn học Đà Nẵng
Location of Mira and Tau Ceti, star map by Torsten Bronger

Mira là sao biến thiên không siêu tân tinh đầu tiên được phát hiện, với ngoại lệ có thể có của ALGOL trong chòm sao Perseus, được xác nhận là một biến chỉ trong 1667. Mira được cho là khoảng 6 tỷ tuổi.

Một ngôi sao đồng hành, Mira B, là một ngôi sao lùn trắng nhiệt độ cao đang bồi đắp khối lượng từ sao khổng lồ đỏ. Hai ngôi sao này tạo thành một cặp cộng sinh, gần nhất của loại sao đôi với mặt trời.

Mira là ngôi sao biến đổi định kỳ sáng, không thể nhìn thấy bằng mắt thường trong một phần của chu kỳ 332 ngày của nó. Sự biến đổi lần đầu tiên được nhà thiên văn học người Đức David Fabricius ghi chép vào 1596. Fabricius tin rằng đó là một Nova cho đến khi ông thấy ngôi sao một lần nữa vào năm 1609. Nhà thiên văn học người Frisia Johannes Holwarda, xác định chu kỳ biến thể của ngôi sao, thường được ghi nhận để khám phá sự thay đổi của nó.

Nhà thiên văn học người Ba Lan Johannes Hevelius đã đặt tên ngôi sao là Mira, có nghĩa là “tuyệt vời” trong tiếng Latinh.

Ngôi sao này đang tách ra một vệt sáng từ lớp vỏ của nó. Kính viễn vọng không gian của NASA Galaxy Evolution Explorer đã tiết lộ một cái đuôi dài 13 năm ánh sáng dấu sau Mira.

τ Ceti (Tau Ceti)

Tau Ceti có quang phổ G lùn (G 8.5) với cấp sao biểu kiến là 3,5. Đây là một trong những ngôi sao gần nhất với hệ mặt trời của chúng ta, chỉ nằm cách 11,9 năm ánh sáng. Nó có một khối lượng chỉ khoảng 78% của mặt trời và là một trong những ngôi sao rất ít lớn hơn mặt trời mà vẫn có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nó là một ngôi sao thiếu kim loại với một chuyển động thích hợp cao. Độ sáng của nó là tương đương với chỉ 55% của độ chói của mặt trời.

Tau Ceti và Epsilon Eridani trong chòm sao Eridanus là hai ngôi sao gần nhau tương tự như mặt trời mà nhà thiên văn học Cornell Frank Drake chọn cho dự án Ozma, một thí nghiệm SETI tiên phong trong 1960 nhằm khám phá các tín hiệu thông minh từ không gian. Không cần phải nói, không có bất kỳ kết quả đáng kể.

CÁC VẬT THỂ XA XÔI TRONG VÙNG TRỜI CETUS

Messier 77 (M77, NGC 1068)

Messier 77 là một thiên hà xoắn ốc có thanh nằm trong chòm Cetus, cách Trái Đất khoảng 47.000.000 năm ánh sáng và đường kính 170.000 năm ánh sáng. Nó có độ sáng biểu kiến là 9,6. Đây là một trong những thiên hà lớn nhất được liệt kê trong danh mục Messier.

Chòm sao Cetus - SeJhJTQt90pRujDoaffakkhj0xv109fZOpfZxelHVyaAlgmqAUxYQC2LHjpFo8NlcDz4u GrkrXqmGjaxIYb7QFs MHDje8Y22rkGrcBgMFUrth0FSDiqOnJSqrCmBXTJre569ed / Thiên văn học Đà Nẵng
Messier 77 (NGC 1068), authors – X-ray (NASA, CXC, MIT, C.Canizares, D.Evans et al), Optical (NASA, STScI), Radio (NSF, NRAO, VLA)

Messier 77 được nhà thiên văn học người Pháp Pierre Méchain phát hiện trong 1780 và sau đó được Charles Messier liệt kê vào danh mục Messier do ban đầu Méchain mô tả đối tượng là một tinh vân, trong khi Messier và William Herschel mô tả nó như là một cụm sao. Các thiên hà có thể dễ dàng tìm thấy 0,7 độ đông-đông nam từ Delta Ceti, một ngôi sao lớn thứ tư.

Thiên Hà có một hạt nhân thiên hà hoạt động (AGN) bị chặn xem bởi bụi cục. Cốt lõi của Thiên Hà là một nguồn radio mạnh. Bernard Yarnton Mills là người đầu tiên khám phá điều này. Ông đã chỉ định vật thể Cetus A.

NGC 1055

NGC 1055 chỉ nằm 0,5 độ bắc-đông bắc của Messier 77. Đó là thiên hà xoắn ốc, nhìn thấy Edge-on, cách khoảng 52.000.000 năm ánh sáng xa xôi, được nhà thiên văn học người Anh William Herschel phát hiện vào 1783.

Cạnh Messier 77, NGC 1055 là một thiên hà xoắn ốc lớn nhất trong nhóm Thiên Hà cũng bao gồm NGC 1073 và một số thiên hà nhỏ hơn bất thường. Nó có đường kính khoảng 115.800 năm ánh sáng. Thiên Hà là một nguồn radio đã biết.

NGC 1087

NGC 1087 là một thiên hà xoắn ốc trung gian, cách xa khoảng 80.000.000 năm ánh sáng.

Nó có một thanh trung tâm rất nhỏ và một số tính năng không đều trong đĩa vật liệu bao quanh nó. Hạt nhân của Thiên Hà là cực kỳ nhỏ.

NGC 1087 nằm gần NGC 1090, một thiên hà xoắn ốc bị cấm, nhưng cả hai không tương tác.

NGC  1073

NGC 1073 là một thiên hà khác ở Cetus. Nó được tin là có một hạt nhân H II. Nó có cấp sao biểu kiến là 11,5.

Chòm sao Cetus - 5zl81vDELYizSRnvQRTCP NeXkOnXOAR1JjSXnC RFDF7iFcw5hD U1jv7Fvwuq9HlTZzzjb2Y6DguWh1I5KBgLv2QsJIKgUyCMZkdbcPJGjJsVsnsIGhS5 W7sOWYRlagtWdnq9 / Thiên văn học Đà Nẵng
NGC 1073, photo: NASA, ESA (Wikisky)

NGC 45

NGC 45 là một thiên hà xoắn ốc, khoảng 32.600.000 năm ánh sáng ở Cetus. Nó có cấp sao biểu kiến là 10,4. Thiên Hà này được phát hiện bởi John Herschel trong 1835 ở Anh.

NGC 17

NGC 17 là một thiên hà xoắn ốc trong Cetus, cách xa TĐ khoảng 250.000.000 năm ánh sáng. Nó có cấp sao biểu kiến là 15,3.

Chòm sao Cetus - / Thiên văn học Đà Nẵng
NGC 17, photo: NASA, ESA, the Hubble Heritage (STScI, AURA)-ESA, Hubble Collaboration, and A. Evans (University of Virginia, Charlottesville, NRAO, Stony Brook University)

NGC 47 (NGC 58)

NGC 47 là một thiên hà xoắn ốc, khoảng 236.000.000 năm ánh sáng, cấp sao biểu kiến là 13,5.

Thiên Hà được phát hiện bởi Ernst Wilhelm Leberecht Tempel ở Đức vào 1886. Nó còn được gọi là NGC 58. (Nhà thiên văn học người Mỹ Lewis Swift quan sát đối tượng sau này và không biết rằng nó đã được Tempel phát hiện.)

Thiên hà này xuất hiện như một tinh vân xoắn ốc nhỏ với một lõi sáng.

NGC 1042

NGC 1042 là một thiên hà xoắn ốc với cấp sao biểu kiến 14,0.

Nó nằm gần một thiên hà khác, NGC 1035, và cả hai được cho là có liên hệ về thể chất với nhau, vì chúng có các redca tương tự.

NGC 247

Chòm sao Cetus - DOBq3eFqONnBtR0 rJTaBr9Voxye7PS YGKCh2DdLYFK QWU 6v qCz Wphdzltov1GenzS5sf Zn7m9k28cJ8bjUMGj27D1u2mHXpJoTAVSjawmAhiJrMnHkzFP26PQ0RlZIJ2k / Thiên văn học Đà Nẵng
NGC 247, photo: ESO

NGC 247 (Caldwell 62) là một thiên hà xoắn ốc trung gian ở Cetus, cách Trái Đất  khoảng 11.100.000 năm ánh sáng.

Nó chịu lực hấp dẫn bởi Thiên Hà Sculptor (NGC 253) trong chòm sao Sculptor, nằm ở trung tâm của nhóm Thiên Hà Sculptor, một trong những nhóm gần nhất với Milky Way Galaxy – Ngân Hà của chúng ta.

Bridget Nguyen theo Constellation-Guide

Content Protection by DMCA.com