Chòm sao Orion là một trong những chòm sao sáng nhất và nổi tiếng nhất trong bầu trời đêm. Nó nằm trên đường thiên xích đạo.
“No other constellation more accurately represents the figure of a man”,
says Germanicus Caesar.
Chòm sao Orion
Orion đã được biết đến từ thời cổ đại. Chòm sao còn được gọi là Thợ săn, vì nó được liên kết với thần thoại Hy Lạp. Nó đại diện cho thợ săn thần thoại Orion, người thường được miêu tả trong các bản đồ sao phải đối mặt với sự xung đột của Taurus, con bò đực, theo đuổi bảy chị em Pleiades, được đại diện bởi cụm sao mở (Open Cluster) nổi tiếng, hoặc đuổi theo sau con thỏ (chòm sao Lepus) với hai con chó săn của anh ấy, được đại diện bởi các chòm sao lân cận Canis Major và Canis Minor.
Chòm sao Orion có hai trong mười ngôi sao sáng nhất trên bầu trời – Rigel (Beta Orionis) và Betelgeuse (Alpha Orionis) – một số tinh vân nổi tiếng – Tinh vân Orion (Messier 42), Tinh vân của De Mairan’s (Messier 43) và Tinh vân Đầu Ngựa (Horsehead Nebula), trong những chòm sao khác – Cụm Trapezium nổi tiếng và một trong những thiên thạch nổi bật nhất trong bầu trời đêm – Orion’s Belt.
Thông tin, vị trí, bản đồ
Chòm sao Orion rất dễ nhận biết vì nó có diện tích khá lớn là 594 độ vuông và là chòm sao lớn thứ 26 trên thiên cầu. Bên cạnh đó nó còn là chòm sao sáng nhất trên bầu trời mùa Đông cùng với ba ngôi sao thẳng hàng đặc trưng. Nó nằm ở góc phần tư thứ nhất của bán cầu bắc (NQ1). Orion có thể được nhìn thấy ở các vĩ độ trong khoảng + 85 ° đến – 75 °. Các chòm sao lân cận là Eridanus, Gemini, Lepus, Monoceros và Taurus.
Orion thuộc họ chòm sao gia đình Orion, cùng với Canis Major, Canis Minor, Lepus và Monoceros. Chòm sao chứa ba thiên thể Messier như Messier 42 (M42, NGC 1976, Orion Nebula), Messier 43 (M43, NGC 1982, De Mairan’s Nebula) và Messier 78 (M78, NGC 2068) – và có bảy ngôi sao với những hành tinh đã biết.
Ngôi sao sáng nhất trong chòm sao là Rigel (Beta Orionis) với cường độ biểu kiến là 0.18. Rigel cũng là ngôi sao sáng thứ sáu trên bầu trời. Ngôi sao sáng thứ hai trong chòm Orion là Betelgeuse (Alpha Orionis) có cường độ biểu kiến là 0.43 và là ngôi sao sáng thứ tám trên bầu trời đêm. Có hai trận mưa sao băng liên quan đến chòm sao Orion, Orionids và Chi Orionids. Các trận mưa sao băng Orionid đạt cực đại vào khoảng ngày 21 tháng 10 hàng năm.
Orion Constellation Map, bởi IAU and tạp chí Sky & Telescope
Thần thoại
Có rất nhiều truyền thuyết, câu chuyện về chòm sao nổi tiếng này trong những nền văn hóa khác nhau. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là trong thần thoại Hy Lạp, trong đó Orion là một chàng thợ săn dũng mãnh. Ông là con trai của vị thần biển cả Poseidon và nàng Euryale – con gái của vua Minos xứ Crete. Poseidon đã cho Orion khả năng đi trên nước. Trong trường ca Odyssey của Homer, Orion được mô tả là một thợ săn khổng lồ, được trang bị một chiếc gậy bằng đồng bất khả phá. Trên bầu trời, những con chó của thợ săn (chòm sao Canis Major và Canis Minor) theo gót để bắt đuổi thỏ rừng (chòm sao Lepus).
Một truyền thuyết khác kể rằng, Orion đã yêu say đắm bảy chị em tiên nữ Pleiades, những cô con gái xinh đẹp của vị thần khổng lồ Titan Atlas (vị thần trụ trời trong truyền thuyết) và nàng tiên biển Pleione. Chàng cứ mãi theo đuổi Pleiades, cuối cùng thần Zeus đã cho cả hai lên bầu trời. Các Pleiades từ đó được đặt tên cho một cụm sao nổi tiếng với bảy ngôi sao tượng trưng cho bảy chị em nằm trong chòm sao Kim Ngưu. Một điểm thú vị nữa là, chòm sao Kim Ngưu luôn mọc trước chòm Orion nên ta thấy chàng thợ săn như đang đuổi theo bảy chị em xinh đẹp trên bầu trời vào ban đêm.
Trong một câu chuyện khác, Orion đã yêu Merope – cô con gái xinh đẹp của vua Oenopion. Một lần, anh đến hòn đảo Chios, xin hỏi cưới Merope. Ông vua hứa với Orion rằng nếu anh ta sống sót thoát khỏi một hòn đảo toàn thú dữ hung tợn thì sẽ được cưới công chúa. Nhờ tài bắn cung siêu đẳng của mình, Orion vượt qua thử thách dễ dàng. Tuy nhiên, vua Oenopion sau đó đã nuốt lời và không chịu gả con gái cho chàng.
Một đêm nọ, Orion tức giận đến nỗi anh ta say rượu và cưỡng hiếp Merope. Nhà vua nổi giận đã báo thù cho con gái mình. Ông ta đợi cho đến khi Orion ngủ thiếp đi và móc mắt anh ta ra, trục xuất Orion ra khỏi đảo Chios. Cơn thịnh nộ của Orion đã vượt quá tầm kiểm soát. Hephaestus cảm thấy tiếc cho Orion nên đã đưa ra yêu cầu giúp chàng thợ săn chữa lành đôi mắt cho anh ấy. Orion cuối cùng đã nghe được một lời sấm truyền rằng anh ta có thể lấy lại được đôi mắt nếu anh ta đi đến điểm xa nhất ở phía đông nơi mặt trời mọc từ đại dương. Orion đã làm theo hướng dẫn nhờ sự trợ giúp của Hephaestus đã đến được đảo Delos, đôi mắt của anh đã được chữa lành một cách kỳ diệu.
Chòm sao Orion có nguồn gốc từ thần thoại Sumer, đặc biệt là trong thần thoại Gilgamesh. Những người Sumer liên kết chúng với câu chuyện kể về người anh hùng của họ chiến đấu với Thiên Ngưu, được đại diện bởi Kim Ngưu. Người ta còn cho rằng Orion được đặt tên theo URU AN-NA, có nghĩa là ánh sáng của thiên đường. Tên của họ chòm sao Kim Ngưu là GUD AN-NA, hoặc “Thiên Ngưu”.
Chòm sao Orion thường được thể hiện là đối mặt với cuộc tấn công của một con bò đực, nhưng không có huyền thoại nào trong thần thoại Hy Lạp kể bất kỳ câu chuyện nào như vậy. Khi mô tả chòm sao, nhà thiên văn học người Hy Lạp Ptolemy mô tả người anh hùng với một cái dùi cui và con sư tử, cả hai thường liên quan đến Heracles, nhưng không có cuốn sách thần thoại về mối quan hệ trực tiếp giữa chòm sao Orion bà Heracles. Tuy nhiên, vì Heracles, người anh hùng nổi tiếng nhất của Hy Lạp, dễ thấy hơn là được đại diện bởi chòm sao Hercules, và vì một trong những nhiệm vụ của anh là bắt được con bò Cretan, nên có ít nhất một gợi ý về mối liên hệ có thể có giữa hai người.
Hình ảnh chòm sao Thợ Săn – vẽ bởi Sidney Hall
Hầu hết các huyền thoại về cái chết của Orion liên quan đến một con Bọ Cạp, nhưng các câu chuyện khác nhau từ một nhà thần thoại khác. Theo thần thoại Hy Lạp – La Mã, Orion là một thợ săn nổi tiếng nhưng có phần tự phụ, khoác lác dám tuyên bố rằng mình là người thợ săn vĩ đại nhất thế giới, rằng anh ta có sức mạnh vô địch và có thể đánh bại mọi sinh vật trên hành tinh này. Nữ thần Hera – vợ của thần Zeus – nghe được điều này, bà tức giận và phái Bọ Cạp – một sinh vật nhỏ bé – đến dùng nọc độc của mình đốt vào chân Orion và giết chết chàng. Tuy nhiên, Bọ Cạp cũng bị Orion giẫm chết. Thương tình, Thần Zeus đưa cả Orion và Bọ Cạp (chòm sao Scorpius) lên bầu trời. Một điều thú vị là hai chòm sao đối địch nhau này nằm ở hai vị trí đối diện trên bầu trời, tức là khi chòm sao này mọc thì chòm sao kia lại lặn mất vì thế hai kẻ tử thù này không bao giờ thấy nhau.
Hình ảnh Orion đang chiến đấu với con Bọ Cạp Scorpius
Tuy nhiên, cũng có một thần thoại không liên quan đến con Bọ Cạp được Hyginus kể lại, đó là việc Artemis – nữ thần săn bắn – đã yêu Orion và đang cân nhắc nghiêm túc từ bỏ lời thề khiết tịnh của mình để cưới anh ta. Đều là thợ săn nam và nữ vĩ đại nhất, họ sẽ trở thành một cặp đôi đáng gờm. Nhưng Apollo – anh em sinh đôi của Artemis đã chống lại điều đó. Một ngày nọ, khi Orion đang bơi, Apollo đã thách thức Artemis thể hiện kỹ năng bắn cung của mình bằng cách bắn một vật nhỏ màu đen mà anh ta chỉ ra giữa những cơn sóng. Artemis đã đâm nó bằng một phát bắn – và cô kinh hoàng khi thấy rằng mình đã giết Orion. Đau buồn, cô đặt Orion vào giữa các chòm sao.
Chòm sao Orion liên kết với các nền văn hóa cổ đại trên thế giới
Chòm sao Orion xuất hiện trong rất nhiều nền văn hóa. Đặc biệt trong văn hóa của người Ai Cập cổ đại, theo các nghiên cứu về kim tự tháp của Ai Cập, các nhà khoa học cho rằng hình ảnh của chòm sao Orion gắn liền với vị trí của các kim tự tháp. Một số nhà khảo cổ nhận định rằng ba kim tự tháp chính tại Giza có bố cục rất đặc thù khi chúng nằm đối ứng với Đai lưng Orion. Sử dụng phần mềm máy tính, họ quay ngược bầu trời Trái Đất về thời cổ đại và nhận thấy sự “trùng khớp” của hình ảnh các kim tự tháp và hình ảnh chòm sao Orion diễn ra đúng vào năm 10.450 TCN.
Quần thể 3 kim tự tháp Ai Cập trên cao nguyên Giza nằm đối ứng với Đai lưng Orion (Ảnh: history.com)
Bố cục hai công trình trên Trái Đất (quần thể kim tự tháp ở Mê-hi-cô và Ai Cập) được cho là tương hợp với các vị trí của các ngôi sao trong Đai lưng Orion. (Ảnh: webjobz.us)
Theo truyền thuyết của thiên chúa giáo, ba ngôi sao nằm thẳng hàng của chòm sao Orion như hình ảnh của ba nhà hiền triết (hoặc ba vị vua) đáng hướng về phía ngôi sao Bethlehem ở phía Đông. Vì thế ba ngôi sao thắt lưng của chòm sao Orion còn có tên gọi là Sao 3 Vua (Three Kings). Ở Thiên văn học cổ Trung Quốc, một phần của chòm sao Orion hiện nay là Sao Sâm trong nhị thập bát tú. Còn trong dân gian Việt Nam, phần giữa của chòm sao Orion có tên gọi là Sao Cày vì nó giống như hình dạng của chiếc cày gắn liền với đời sống nông nghiệp.
Orion – chiếc chìa khóa của bầu trời
Chòm sao Orion ngày xưa thường được các thủy thủ sử dụng để xác định phương hướng. Trong trường ca Odyssey của Homer, chòm sao Orion là một trong những chiếc la bàn tự nhiên mà chàng Odysseus đã sử dụng trong chuyến hải trình dài dằng dặc của mình tìm đường về với quê hương.
Phía dưới ba ngôi sao thắt lưng thẳng hàng của chòm sao cũng là ba đốm sáng nhỏ thẳng hàng tạo thành thanh kiếm của chàng Orion, vùng giữa chính là cụm tinh vân Orion nổi tiếng: M42, M43, … Thẳng theo hướng của thanh kiếm là gần như chính xác hướng Nam, quả là một chiếc la bàn tự nhiên tuyệt diệu.bTừ chòm Orion chúng ta có thể tìm ra rất nhiều chòm sao khác xuất hiện vào mùa đông và đều là những chòm sao sáng của bầu trời.
- Sao Sirius và chòm Canis Major (Đại Khuyển)
Hãy kéo dài đường thẳng đi qua ba ngôi sao thẳng hàng ở thắt lưng của chàng thợ săn Orion bạn sẽ gặp một ngôi sao sáng xanh rực rỡ, đó chính là sao Sirius trong chòm Đại Khuyển. Sirius còn gọi là sao Thiên Lang, ngoại trừ các hành tinh nó là ngôi sao sáng nhất của bầu trời đêm. Sirius cách chúng ta 8.6 năm ánh sáng.
- Sao Procyon – Chòm Canis Minor (Tiểu Khuyển) và Tam giác mùa đông
Procyon là ngôi sao sáng thứ tám trên bầu trời cùng với Sirius và Betelgeuse (chòm sao Orion) tạo thành một tam giác đều với ba đỉnh cực sáng.
Tam giác mùa đông
- Sao Aldebaran và chòm Taurus (Kim Ngưu) – Cụm sao Tua Rua
Tìm chòm Kim Ngưu
Aldabaran, ngôi sao có màu đỏ cam là một nhánh của chữ V – sừng bò của chòm sao Taurus. Nó là ngôi sao sáng thứ 13 trên bầu trời. Hãy kẻ đường thẳng từ ba sao thắt lưng của Orion nhưng ngược hướng với Sirius để tìm ra Aldebaran.
Gần chòm Taurus có một cụm sao mờ rất nổi tiếng đó là Pleiades hay ở Việt Nam còn gọi là Tua Rua. Cụm sao này còn gọi là Sao Mạ vì xuất hiện lúc sáng sớm vào đầu tháng 6 thời điểm gieo mạ.
- Chòm Gemini (Song Tử)
Tìm chòm Song Tử
Chúng ta có thể dùng sao Betelgeuse và thắt lưng của Orion để xác định hai sao Pollux và Castor trong chòm Gemini.
- Chòm sao Auriga (Ngự Phu)
Ở trên đầu của chòm sao Orion, xuôi theo thanh kiếm về hướng Bắc, các bạn sẽ bắt gặp một chòm sao có hình ngũ giác đó là chòm Auriga (Ngự Phu) trong đó có sao Capella là sao sáng thứ 6 của bầu trời.
- Lục giác mùa đông
Các sao sáng của những chòm sao trên hợp thành các đỉnh của một lục giác gọi là Lục giác mùa đông.
Các sao sáng tạo thành 6 đỉnh của Lục giác mùa đông
Đỉnh lục giác là các sao:
- Sirius: sao sáng nhất bầu trời (chòm Canis Major – Đại Khuyển)
- Rigel: sáng thứ 7 (Chòm Orion – Thợ Săn)
- Aldebaran: sáng thứ 13 (chòm Taurus – Kim Ngưu)
- Capella: sáng thứ 6 (chòm Auriga – Ngự Phu)
- Pollux và Castor: sáng thứ 16 và 45 (chòm Gemini – Song Tử)
- Procyon: sáng thứ 8 (chòm Canis Minor – Tiểu Khuyển)
Những vì sao trong chòm sao Orion
Rigel – β Orionis (β Ori, β Orionis, Beta Orionis, 19 Orionis)
Rigel là ngôi sao nằm phía dưới bên phải trong chòm sao Orion
Rigel là ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Orion. Với cường độ biểu kiến là 0.18, nó cũng là ngôi sao sáng thứ bảy trên bầu trời. Mặc dù theo định danh Bayer nó có ký hiệu “beta”, sao Rigel hầu như luôn luôn sáng hơn ngôi sao Betelgeuse, Alpha Orionis. Hệ Rigel thường chứa ba ngôi sao tạo thành hệ nhị phân trực quan được biết đến từ năm 1831, thậm chí có thể sớm hơn, khi F. G. Struve lần đầu tiên đo nó. Rigel được bao quanh bởi một lớp vỏ khí bị thải ra.
Cái tên Rigel xuất phát từ cụm từ tiếng Ả Rập Riǧl Ǧawza al-Yusra, có nghĩa là “chân trái của Yusra ” (the left foot of the central one). Rigel đóng vai trò là “chân trái” của Orion. Một cái tên bằng tiếng Ả Rập khác của chòm sao là iǧl al-ǧabbār, nghĩa là “chân của người vĩ đại” (the foot of the great one). Dựa trên từ này, có hai tên biến thể khác của ngôi sao là Algebar và Elgebar.
Rigel là sao siêu khổng lồ xanh, có khối lượng 17 lần khối lượng Mặt Trời, độ sáng lớn gấp 85.000 lần độ sáng của Mặt Trời. Rigel đã được nghiên cứu khá kỹ bằng các đo đạc chính xác nhờ phương pháp thị sai: ước lượng qua quang phổ (Rigel thuộc loại quang phổ B8lab), các nhà thiên văn thu được giá trị khoảng cách từ Trái Đất đến nó khoảng 700 đến 900 năm ánh sáng (210 đến 280 parsec), và dữ liệu từ vệ tinh Hipparcos với giá trị “tin cậy nhất” là 772,51 năm ánh sáng (237 pc), với sai số biên khoảng 19%. Rigel là một biến tinh, một sao siêu khổng lồ biến đổi bất thường, với độ sáng thay đổi từ 0.03 đến 0.3 trong khoảng 22 – 25 ngày.
Thành phần chính trong hệ thống, Rigel A sáng hơn 500 lần so với Rigel B, bản thân nó là một ngôi sao nhị phân quang phổ. Rigel B có cường độ 6.7, bao gồm một cặp sao chuỗi chính B9V quay quanh một trọng tâm chung sau mỗi 9.8 ngày.
Với độ sáng và sự di chuyển của mình trong vùng tinh vân, Rigel làm sáng lên một số đám mây bụi trong vùng lân cận chung của nó, nổi bật nhất là IC 2118 (tinh vân Đầu Phù Thủy – the Witch Head Nebula – một tinh vân phản xạ mờ nằm ở khoảng 2.5 độ về phía tây bắc của rigel, trong chòm sao Eridanus).
Rigel cũng kết hợp với tinh vân Lạp Hộ, mặc dù khoảng cách từ Trái Đất đến tinh vân gấp hai lần khoảng cách đến Rigel nhưng hai thiên thể nằm khá gần nhau trong chòm sao Lạp Hộ nếu nhìn từ Trái Đất. Tuy có khoảng cách khác nhau như vậy, quỹ đạo chuyển động của Rigel trong không gian trong tương lai có thể sẽ gần lại với tinh vân khi nhìn từ Trái Đất. Từ đó có thể phân loại Rigel là thành viên bên ngoài thuộc tập hợp Orion OB1 (Orion OB1 Association), cùng với nhiều thiên thể sáng khác trên bầu trời; cụ thể hơn, nó là thành viên của tập hợp Taurus-Orion (Taurus-Orion R1 Association), với nhóm OB1 là những ngôi sao nằm gần tinh vân và hình thành gần đây.
Rigel mới chỉ khoảng 10 triệu năm tuổi. Cuối hành trình phát triển của nó, nó sẽ phát triển thành một siêu sao khổng lồ đỏ, giống với Betelgeuse.
Betelgeuse – α Orionis (α Ori, Alpha Orionis, 58 Orionis)
Ngôi sao nằm ở vị trí mũi tên bên phải ghi α là Betelgeuse trong Orion.
Betelgeuse là ngôi sao sáng thứ mười hai trên bầu trời đêm và là ngôi sao sáng thứ hai trong chòm Orion, sau ngôi sao Rigel. Ngôi sao có cường độ biểu kiến là 0.42 và thuộc lớp phổ M2lab.
Thuộc về kiểu sao khổng lồ đỏ, Betelgeuse là một trong những sao lớn nhất và sáng nhất được các nhà thiên văn học biết đến. Nếu chúng ta đặt nó tại tâm của hệ Mặt Trời, bề mặt của nó sẽ mở rộng đến tận vành đai tiểu hành tinh và có thể đến tận quỹ đạo của Sao Mộc và xa hơn; ngôi sao này sẽ chứa toàn bộ Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất và Sao Hỏa. Tuy nhiên, việc ước lượng khoảng cách từ Trái Đất đến ngôi sao ở thế kỷ trước trong khoảng từ 180 đến 1.300 năm ánh sáng, dẫn đến kết quả tính toán về đường kính, độ sáng và khối lượng là rất khó chính xác. Hiện tại, người ta cho rằng khoảng cách đến Betelgeuse vào khoảng 640 năm ánh sáng, và giá trị trung bình của cấp sao tuyệt đối là -6.05.
Năm 1920, Alpha Ori là ngôi sao đầu tiên (sau Mặt Trời) được thực hiện đo đạc đường kính góc. Từ đó tới nay, nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng các kính thiên văn để đo ngôi sao khổng lồ này, mỗi phương pháp ứng với các tham số khác nhau, và thường cho các giá trị khác nhau. Những ước lượng hiện nay về đường kính của nó vào khoảng 0.043 tới 0.056 giây cung, cho thấy kích thước của Betelgeuse đang thay đổi một cách tuần hoàn. Do hiệu ứng đường viền tối lại (limb darkening), đặc tính của sao biến quang và đường kính góc đã làm thay đổi bước sóng thu được, ngôi sao vẫn còn là một bí ẩn khó hiểu. Vấn đề còn phức tạp hơn khi Betelgeuse có một lớp vỏ (envelope) bất đối xứng bao quanh do sự mất mát khối lượng liên quan đến khối khí khổng lồ bị đẩy ra ngoài không gian từ bề mặt sao. Thậm chí có chứng cứ cho những ngôi sao đồng hành quay bên trong lớp vỏ này, đóng góp vào tính dẹt của sao.
Với màu đỏ nổi bật, nó là sao biến quang bán đều đặn (semiregular variable star) với cấp sao biểu kiến thay đổi từ 0.2 đến 1.2, và cũng là biên độ biến đổi lớn nhất trong các sao có cấp sao biểu kiến 1. Điều đó có nghĩa là đôi khi Betelgeuse sáng hơn ngôi sao kề nó – Rigel. Tuy nhiên, điều này rất hiếm khi xảy ra. Sự thay đổi độ sáng của ngôi sao lần đầu tiên được ghi nhận bởi Sir John Herschel trong Đại cương thiên văn học năm 1836.
Các nhà thiên văn học tin rằng Betelgeuse chỉ mới 10 triệu năm tuổi, không nhiều đối với siêu sao đỏ, nhưng nó đã tiến hóa rất nhanh do khối lượng khổng lồ của nó. Hiện tại ngôi sao đang ở giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa sao, Betelgeuse có thể sẽ nổ tung thành siêu tân tinh loại II trong vài triệu năm tới. Khi đó nó sẽ dễ dàng tìm thấy trên bầu trời, không chỉ vào ban đêm, mà cả trong ánh sáng ban ngày. Ở khoảng cách hiện tại sao với hệ Mặt Trời, siêu tân tinh sẽ tỏa sáng hơn Mặt Trăng và là siêu tân tinh sáng nhất từng được ghi nhận trong lịch sử.
Nguồn gốc của tên Betelgeuse không hoàn toàn chắc chắn. Phần cuối cùng, -elgeuse có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập của chòm sao alJauzā́, nơi được đặt một cái tên nữ tính từ những truyền thuyết của người Ả Rập xưa và có thể tạm dịch là “ngôi sao ở giữa”. Giải thích được chấp nhận nhiều nhất là cái tên này được bắt nguồn từ sự sai lệch của một cụm từ Ả Rập Yad al-Jauzā́, hay là Bàn tay của al-Jauzā́, nghĩa là bàn tay của Orion, đã trở thành Betelgeuse thông qua việc dịch sai tiếng Latin cổ, với chữ cái tiếng Ả Rập đầu tiên viết tắt là y bị nhầm thành chữ b, dẫn đến cái tên Bait al-Jauzā́, hoặc “ngôi nhà của Orion” trong thời Phục hưng. Sau cùng, chúng ta có cái tên hiện đại của ngôi sao – Betelgeuse.
Ngôi sao này thuộc 1 đỉnh của Tam giác Mùa đông và nằm gần tâm của Lục giác Mùa đông.
Tam giác mùa đông và hình lục giác
Hai ngôi sao khác tạo thành Tam giác Mùa đông (còn được gọi là Tam giác vĩ đại của phía Nam (the Great Southern Triangle)) là Sirius và Procyon – những ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Canis Major và Canis Minor.
Những ngôi sao tương tự cũng là một phần của Lục giác mùa đông (Winter Hexagon) có Rigel, Aldebaran trong chòm sao Taurus, Capella trong Auriga và Pollux, Castor trong Gemini.
Bellatrix – γ Orionis (Gamma Orionis, 24 Orionis)
Bellatrix, thỉnh thoảng cũng được gọi là Ngôi sao Amazon, là ngôi sao sáng thứ ba trong chòm sao Orion và là ngôi sao sáng thứ 27 trong bầu trời, chỉ mờ hơn Castor trong Gemini một chút. Tên của nó xuất phát từ tiếng Latin có nghĩa là “nữ thần chiến binh” (the female warrior). Nó có cường độ trung bình biểu kiến là 1.64 và cách xa Trái Đất khoảng 240 năm ánh sáng.
Bellatrix là một ngôi sao khổng lồ màu trắng xanh sáng, nóng, được phân loại là một biến quang phun trào. Cường độ của nó thay đổi trong khoảng 1.59 đến 1.64. Ngôi sao thuộc lớp phổ B2 III. Bellatrix là một trong những ngôi sao nóng có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nó phát ra ánh sáng gấp khoảng 6.400 lần so với Mặt Trời. Bellatrix là một ngôi sao khổng lồ với khối lượng gấp khoảng 8.6 lần Mặt Trời. Trong vòng vài triệu năm, Bellatrix sẽ trở thành một ngôi sao khổng lồ màu xam và cuối cùng thành một sao lùn trắng khổng lồ.
Trước khi độ biến quang của ngôi sao Bellatrix được xác nhận, Gamma Orionis đã được sử dụng như một ngôi sao chuẩn quang và quang phổ, nhưng cả hai đặc điểm này đều không được tin cậy.
Orion’s Belt – Mintaka, Alnilam và Alnitak (Delta, Epsilon và Zeta Orionis)
Orion’s Belt là một trong những mảng sao nổi tiếng nhất trên bầu trời đêm. Nó được hình thành bởi ba ngôi sao sáng trong chòm sao Orion: Mintaka (Delta Orionis), Alnilam (Epsilon Orionis) và Alnitak (Zela Orionis).
Orion’s Belt: Alnitak, Alnilam và Mintaka là những ngôi sao màu xanh sáng từ đông sang tây (trái sang phải) dọc theo đường chéo trong viễn cảnh vũ trụ huy hoàng. Mặt khác được biết đến như là thắt lưng của Orion, ba ngôi sao khổng lồ xanh này nóng hơn và to hơn nhiều so với Mặt Trời. Chúng năm cách xa Trái Đất khoảng 1.500 năm ánh sáng (Ảnh: Astrowicht)
Mintaka – δ Orionis (Delta Orionis, 34 Orionis)
Mintaka, Delta Orionis, là cực Tây của ba ngôi sao trong Thắt lưng Orion. Nó là ngôi sao bên phải khi được quan sát từ Bắc bán cầu, hướng về phía Nam. Cái tên Mintaka có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập manţaqah, có nghĩa là “khu vực” hay “vùng”.
Mintaka là một sao đôi, được phân loại là một sao biến quang nhị phân lu mờ. Thành phần chính là một ngôi sao đôi gồm một sao khổng lồ loại B và một sao O nóng, quay quanh nhau sau mỗi 5.63 ngày và che mờ nhau một chút, làm giảm 0.2 độ sáng. Hệ này cũng chứa một ngôi sao cường độ 7, cách nhau khoảng 52’’ từ thành phần chính và một ngôi sao cường độ thứ 14 rất mờ ở giữa.
Mintaka cách Trái Đất 915 năm ánh sáng với cấp sao là 2.21. Các thành phần sáng nhất của Mintaka đều sáng gấp khoảng 90.000 lần so với Mặt Trời của chúng ta và khối lượng gấp 20 lần Mặt Trời.
Theo thứ tự độ sáng, cường độ biểu kiến của các thành phần là 2.23 (3.2 / 3.3), 6.85, 14.0. Mintaka là ngôi sao mờ nhất trong ba ngôi sao của Thắt lưng Orion và là ngôi sao sáng thứ bảy của chòm sao Orion. Nó là ngôi sao sáng gần nhất với đường xích đạo bầu trời: nó mọc gần như chính xác về phía Đông và phía Tây.
Alnilam – ε Orionis (Epsilon Orionis, 46 Orionis)
Alnilam, Epsilon Orionis là một ngôi sao nóng, màu xanh sáng. Nó có cường độ biểu kiến là 1.70 và cách xa khoảng 1.300 năm ánh sáng. Alnilam thuộc lớp phổ B0.
Alnilam và NGC 1990 (Ảnh: Glen Youman tại astrophotos.net)
Alnilam là ngôi sao chính giữa của Thắt lưng Orion. Đây là ngôi sao sáng thứ tư trong chòm sao Orion và là ngôi sao sáng thứ 30 trên bầu trời đêm. Xét cả ánh sáng cực tím thì Alnilam sáng gấp 375.000 lần Mặt Trời.
Alnilam được bao quanh bởi tinh vân phản xạ NGC 1990, một đám mây phân tử được chiếu sáng bởi ánh sáng phát ra từ ngôi sao. Gió thổi từ bề mặt của ngôi sao có tốc độ 2.000 km mỗi giây. Tuổi ước tính của ngôi sao là khoảng 4 triệu năm. Nó đang mất khối lượng và phản ứng tổng hợp Hydro bên trong của nó đang ngừng hoạt động. Alnilam sẽ sớm phát triển thành siêu sao đỏ, sáng hơn nhiều so với Betelgeuse và cuối cùng phát nổ như một siêu tân tinh.
Cái tên Alnilam xuất phát từ tiếng Ả Rập an-niżām, có liên quan đến từ nażm, có nghĩa là “Chuỗi ngọc trai” (the string of pearls).
Những ngôi sao của Orion’s Belt và Flame Nebula (Ảnh: Davide De Martin, Digitized Sky Survey, ESA, ESO, NASA FITS Liberator)
Alnitak – ζ Orionis (Zeta Orionis, 50 Orionis)
Alnitak, Zeta Orionis là một hệ sao của Orion, cách Trái Đất khoảng 800 năm ánh sáng, kể cả bức xạ cực tím mà mắt người không thể nhìn thấy, Alnitak sáng hơn Mặt Trời 100.000 lần. Nó có cường độ biểu kiến là 1.72. Cái tên Alnitak có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập an-nitaq, có nghĩa là “thắt lưng” (the girdle).
Thành phần sáng nhất trong hệ là Alnitak A – một siêu sao màu xanh, nóng với độ lớn tuyệt đối là -5,25.
Ngôi sao có độ sáng biểu kiến thị giác (visual magnitude) là 2.04 và thuộc lớp quang phổ O9. Đó là ngôi sao hạng O sáng nhất được biết đến. Trên thực tế, nó là một ngôi sao nhị phân gần, bao gồm siêu sao lớp O9.7, một ngôi sao có khối lượng gấp 28 lần Mặt Trời và một sao lùn xanh thuộc lớp quang phổ OV, với cường độ biểu kiến khoảng 4. Sao lùn đầu tiên được phát hiện năm 1998.
Tinh vân Alnitak và Flame Nebula (Ảnh: Atlas Image courtesy of 2MASS, UMass, IPAC-Caltech, NASA, NSF)
Alnitak là ngôi sao cực đông là Orion’s Belt. Hệ nằm bên cạnh tinh vân phát xạ ánh sáng IC 434. Tinh vân được phát hiện lần đầu tiên bởi William Herschel vào ngày 1 tháng 2 năm 1786.
Saiph – κ Orionis (Kappa Orionis, 53 Orionis)
Kappa Orionis hay Saiph là ngôi sao phía đông nam của tứ giác trung tâm của Orion. Đây là ngôi sao sáng thứ sáu trong chòm sao, với cường độ biểu kiến là 2.06. Ngôi sao cách xa Trái Đất khoảng 720 năm ánh sáng.
Saiph là một siêu sao màu xanh, thuộc lớp quang phổ B0.5. Tên của nó bắt nguồn từ cụm từ tiếng Ả Rập saif al jabbar, có nghĩa là “Thanh kiếm của người khổng lồ” (the sword of the giant). Giống như nhiều ngôi sao khác ở Orion, Saiph cũng sẽ kết thúc cuộc đời trong một vụ nổ siêu tân tinh.
Hatsya – ı Orionis (Lota Orionis)
Hatsya hay loat Orionis là một hệ sao bốn cực trong chòm sao Orion. Nó là ngôi sao sáng nhất trong thanh kiếm của Orion và đánh dấu mũi kiếm. Ngôi sao có tên truyền thống Hatsya và tiếng Ả Rập Na’ir al Saif, được dịch là một trong những thanh kiếm sáng chói.
Thành phần chính trong hệ lota Orionis là một ngôi sao nhị phân quang phổ khổng lồ có quỹ đạo không tròn 29 ngày. Hệ này bao gồm một ngôi sao khổng lồ màu xanh thuộc lớp quang phổ O9 III và một ngôi sao hạng B1 III.
Lota Orionis có cường độ biểu kiến là 2.77 và cách hệ Mặt Trời khoảng 1.300 năm ánh sáng.
Meissa – ƛ Orionis (Lambada Orionis)
Lambda Orionis là ngôi sao khổng lồ màu xanh thuộc loại quang phổ O8III, cách xa Trái Đất khoảng 1.100 năm ánh sáng. Nó có cường độ thị giác là 3.39. Tên truyền thống của ngôi sao Meissa xuất phát từ tiếng Ả Rập Al-Maisan, có nghĩa là “ngôi sao tỏa sáng”. Lambda orionis đôi khi cũng được gọi là Heka, từ tiếng Ả Rập Al Hakah, hoặc “một đốm trắng”, đề cập đến biệt thự mặt trăng Ả Rập bao gồm cả Lambda và Phi Orionis.
Meissa thực sự là một ngôi sao đôi. Người bạn đồng hành, một sao lùn trắng xanh nóng thuộc lớp quang phổ B0.5V, có cường độ biểu kiến là 5.61 và được tách ra khỏi thành phần sáng hơn 4.4 giây cung.
φ Orionis (Phi Orionis)
Phi Orionis là hai hệ sao ở Orion, Phi-1 Orionis và Phi-2 Orionis, cách nhau 0.71°. Phi-1 Orionis là một ngôi sao đôi cách xa Trái Đất khoảng 1.000 năm ánh sáng. Thành phần chính là một ngôi sao dãy chính thuộc loại quang phổ B0, với cường độ biểu kiến là 4.39.
Phi-2 Orionis là một ngôi sao khổng lồ lớp K0, cách xa Trái Đất khoảng 115 năm ánh sáng. Nó có cường độ biểu kiến là 4.09.
π Orionis (Pi Orionis)
Pi Orionis là một nhóm sao tương đối lỏng lẻo tạo thành lá chắn của Orion. Không giống như hầu hết các ngôi sao nhị phân và nhiều ngôi sao có chung chỉ định của Bayer, các ngôi sao trong hệ Pi Orionis khá rộng. Pi-1 Orionis và Pi-6 Orionis các nhau gần 9 độ.
Pi-1 Orionis (7 Orionis) là ngôi sao mờ nhất trong hệ. Nó là một sao lùn chính màu trắng với cường độ biểu kiến là 4.60, cách xa khoảng 120 năm ánh sáng. Ngôi sao thuộc loại quang phổ A0.
Pi-2 Orionis (2 Orionis) cũng là một sao lùn, thuộc lớp phổ A1Vn. Nó nằm cách Trái Đất 194 năm ánh sáng và có cường độ thị giác 4.35.
Pi-3 Orionis (1 Orionis) còn được gọi là Tabit, là ngôi sao sáng nhất trong số sáu ngôi sao. Nó là một sao lùn trắng thuộc lớp quang phổ F6V, chỉ cách Trái Đất 26.32 năm ánh sáng. Ngôi sao này rất giống với Mặt Trời, với 1.2 khối lượng Mặt Trời, gấp 1.3 lần bán kính Mặt Trời và gấp 3 lần độ sáng của Mặt Trời. Vì lý do này, Pi-3 Orionis được coi là một vị trí khả dĩ cho các hành tinh có kích thước Trái Đất. Tên truyền thống của ngôi sao là Tabit, xuất phát từ tiếng Ả Rập Al-Tabit, có nghĩa là “người cứu hộ”.
Pi-4 Orionis (3 Orionis) có cường độ biểu kiến là 3.69 và cách xa Trái Đất 1.250 năm ánh sáng. Đó là một trong những ngôi sao sáng nhất được biết đến. Nó là một ngôi sao nhị phân quang phổ, bao gồm hai ngôi sao hạng B2 nóng, một sao khổng lồ và một sao nhỏ. Hai ngôi sao tạo thành một cặp rất gần và không thể nhận thấy thậm chí thông qua kính viễn vọng. Chỉ có quang phổ của chúng cho thấy là hai ngôi sao, không phải một. Các ngôi sao quay quanh nhau mỗi 9.5191 ngày. Cả hai đều có khối lượng gấp khoảng 10 lần Mặt Trời và độ sáng tương ứng của chúng là 16.200 và 10.800 lần so với Mặt Trời,
Pi-5 Orionis (8 Orionis) có cường độ biểu kiến là 3.70 và cách hệ Mặt Trời 1.342 năm ánh sáng.
Pi-6 Orionis (10 Orionis) là một ngôi sao khổng lồ màu cam sáng thuộc lớp quang phổ K2II. Nó là một ngôi sao biến quang với cường độ thị giác trung bình là 4.45. Ngôi sao nằm cách Trái Đất 954 năm ánh sáng.
η Orionis (Eta Orionis)
Eta Orionis là một sao nhị phân che khuất bao gồm hai ngôi sao màu xanh, thuộc loại quang phổ B0.5V, cách xa Trái Đất khoảng 1.000 năm ánh sáng. Nó thuộc về Orion Arm, một nhánh xoắn ốc nhỏ của Dải Ngân Hà, đôi khi còn được gọi là Orion Spur hoặc Orion-Cygnus Arm.
Eta Orionis nằm ở phía Tây của Orion’s Belt, giữa Delta Orionis và Rigel, có một số tên truyền thống: Saiph (chung với Kappa Orionis), Algjebbah và Oblis có nghĩa là “Thanh kiếm” trong tiếng Latin.
Ngôi sao được phân loại là biến Beta Lyrae. Nó có cường độ thị giác là 3.38.
σ Orionis (Sigma Orionis)
Sigma Orionis là một hệ nhiều sao trong chòm Orion. Nó bao gồm năm ngôi sao nằm ở phía nam Alnitak. Độ sáng biểu kiến của các thành phần khoảng từ 4.2 đến 6.7. Hệ này cách xa khoảng 1.150 năm ánh sáng.
Thành phần chính trong hệ Sigma Orionis là một ngôi sao đôi Sigma Orionis AB, bao gồm hai sao lùn nung chảy Hydro cách nhau chỉ 0.25 giây. Ngôi sao sáng hơn có màu xanh. Nó thuộc loại phổ O9V và có cường độ biểu kiến là 4.2. Ngôi sao đồng hành thuộc lớp phổ B0.5V và có cường độ thị giác là 5.1. Hai ngôi sao quay quanh nhau mỗi 170 năm.
Sigma Orionis C là một ngôi sao lùn thuộc loại quang phổ A2V. Nó có cường độ biểu kiến là 8.79.
Sigma Orionis D và E cũng là những ngôi sao lùn. Cả hai đều thuộc loại phổ B2V và độ sáng tương ứng là 6.62 và 6.66. Sigma Orionis E đặc biệt giàu Helium.
ᴛ Orionis (Tau Orionis)
Tau Orionis thuộc lớp quang phổ B5III và cách xa Trái Đất 555 năm ánh sáng. Với cường độ biểu kiến là 3.59, ngôi sao có thể được nhìn thấy mà không cần ống nhòm.
x1 Orionis (Chi-1 Orionis)
Chi-1 Orionis là một sao lùn chính, chỉ cách Trái Đất 28 năm ánh sáng. Nó thuộc loại phổ G0V và có cường độ biểu kiến là 4.39. Nó có một sao lùn đỏ mờ và một sao đồng hành, với chu kỳ quỹ đạo là 14.1 năm.
Gliese 208
Gliese 208 là một sao lùn màu cam, thuộc lớp quang phổ K7. Nó có cường độ biểu kiến là 8.9 và chỉ cách xa 37.1 năm ánh sáng. Ngôi sao được cho là chỉ cách Mặt Trời 5 năm ánh sáng vào 500.000 năm trước.
V380 Orionis
V380 Orionis là một hệ ba sao chiếu sáng tinh vân phản xạ NGC 1999, nằm gần Tinh vân Orion.
V380 Orionis và tinh vân phản chiếu NGC 1999 (Ảnh: NASA và the Hubble Heritage Team)
Tinh vân có một lỗ trống khổng lồ xuất hiện dưới dạng một mảng đen ở khu vực trung tâm của nó. Lý do tại sao bản vá xuất hiện màu đen vẫn chưa được xác định, nhưng một giả thuyết cho rằng các tia khí hẹp từ các ngôi sao trẻ lân cận có thể đã đâm thủng tấm bụi và khí trong tinh vân và bức xạ mạnh từ một ngôi sao cũ trong khu vực có thể đã giúp tạo ra lỗ hổng.
Tinh vân nằm cách Trái Đất khoảng 1.500 năm ánh sáng. V380 Orionis thuộc loại quang phổ A0 và cách xa Trái Đất khoảng 1.000 năm ánh sáng.
GJ 3379
GJ 3379 là ngôi sao trong chòm sao Orion gần nhất với hệ Mặt Trời. Nó chỉ cách 17.5 năm ánh sáng. Nó là một sao lùn đỏ, thuộc lớp quang phổ M3.5V, với cường độ thị giác là 11.33. GJ 3379 được cho là xuất hiện trong vòng 4.3 năm ánh sáng từ Mặt Trời khoảng 163.000 năm trước.
Các thiên thể xa xôi trong chòm sao Orion
Tổ hợp đám mây phân tử Orion
Tổ hợp đám mây phân tử Orion hay đơn giản là Tổ hợp Orion bao gồm một nhóm lớn các đám mây đen, tinh vân phát xạ và phản xạ sáng, tinh vân tối, vùng H II (các đám mây lớn cho thấy hoạt động hình thành sao gần đây) và các ngôi sao trẻ trong chòm sao Orion. Tổ hợp Orion nằm cách xa 1.500 đến 1.600 năm ánh sáng. Tinh vân Orion có thể được nhìn thấy bằng mắt thường. Tổ hợp đám mây phân tử Orion chứa hầu hết các thiên thể nổi tiếng trên bầu trời: the Orion Nebula, Barnard’s Loop, the Flame Nebula, the Horsehead Nebula, Messier 43 và Messier 78.
Tinh vân Orion – Messier 42 (M42, NGC 1976)
Tinh vân Orion hay Messier 42 là một tinh vân khuếch tán phản xạ nằm ở phía nam của ba ngôi sao trong Orion’s Belt. Đôi khi nó còn được gọi là Tinh vân lớn (the Great Nebula) hay Tinh vân Orion vĩ đại (the Great Orion Nebula).
Orion Nebula – Messier 42 (Ảnh: ESO, J. Emerson, VISTA. Lời cảm ơn: Cambridge Astronomical Survey Unit)
Tinh vân là một trong những thiên thể sáng nhất trên bầu trời và có thể nhìn thấy mà không cần ống nhòm. Nó có cường độ thị giác là 4.0 và cách Trái Đất 1.344 năm ánh sáng.
Nhìn bằng mắt thường, Tinh vân Orion xuất hiện dưới dạng “ngôi sao” trung tâm hời mờ nhạt, trong Thanh kiếm của Orion, phía nam Orion’s Belt.
Messier 42 là khu vực được biết đến gần nhất về sự hình thành sao khổng lồ của hệ Mặt Trời. Nó là một phần của Cụm đám mây phân tử Orion.
Tinh vân Orion chứa Trapezium hay Orion Trapezium Cluster, một cụm mở rất trẻ có thể dễ dàng nhận ra bởi bốn ngôi sao sáng nhất của nó , tạo thành một tiểu hành tinh hình thang.
The Trapezium (Cụm Orion Trapezium)
Trapezium là một cụm sao mở, trẻ, nằm ở trung tâm của Tinh vân Orion. Nó có kích thước là 47 giây cung và có cường độ biểu kiến là 4.0. Cụm sao được Galileo Galilei phát hiện lần đầu tiên vào ngày 4 tháng 2 năm 1617. Ông đã vẽ ba trong số các ngôi sao (A, C và D) và cái thứ tư được các nhà quan sát thêm vào năm 1673. Đến năm 1888, tám ngôi sao đã được phát hiện trong cụm. Năm điểm sáng nhất phát ra hầu hết ánh sáng chiếu sáng tinh vân xung quanh.
Cụm Orion Trapezium có thể dễ dàng xác định trên bầu trời bởi thiên thạch được hình thành bởi bốn ngôi sao sáng nhất A, B, C và D.
Cụm Trapezium (Ảnh: NASA, ESA, Hubble)
Ngôi sao sáng nhất và to nhất trong cụm sao là ngôi sao Theta-1 Orionis C – một ngôi sao màu xanh thuộc lớp quang phổ O6pe V. Ngôi sao có cường độ thị giác 5.13 và cách xa Trái Đất khoảng 1.500 năm ánh sáng. Nó là một trong những ngôi sao sáng nhất được biết đến, với cường độ tuyệt đối là -3.2. Theta-1 Orionis C cũng là ngôi sao có nhiệt độ bề mặt cao nhất so với bất kỳ ngôi sao nào có thể nhìn thấy bằng mắt thường: 45.500K.
Tinh vân De Mairan – Mesier 43 (M43, NGC 1982)
Tinh vân Messier 43 hay tinh vân De Mairan là một tinh vân phản xạ phát xạ hình thành sao của Orion. Vùng H II nổi tiếng lần đầu tiên được phát hiện bởi nhà thời gian học – nhà thiên văn học và nhà địa vật lý người Pháp Jean-Jacques Dortous de Mairan năm 1731.
De Mairan’s Nebula – Messier 43 (Ảnh: ESA, Hubble & NASA)
Charles Messier sau đó đã chỉ định Messier 43 mờ đục và đưa nó vào danh mục của mình.
Tinh vân của De Mairan là một phần của Tinh vân Orion, nhưng được ngăn cách với nó bởi một làn bụi lớn giữa các vì sao. Nó có cường độ biểu kiến là 9.0 và cách xa Trái Đất 1.600 năm ánh sáng. Tinh vân nằm cách cụm Trapezium khoảng 7’ về phía bắc.
Mesier 78 (M78, NGC 2068)
Messier 78 là một tinh vân phản chiếu trong Orion. Nó được quan sát lần đầu tiên bởi nhà thiên văn học người Pháp Pierre Méchain vào năm 1780 và được đưa vào danh mục của Messier vào cuối năm đó.
Messier 78 – NGC 2068 (Ảnh: ESO và Igor Chekalin)
Tinh vân bao quanh hai ngôi sao có cường độ sáng thứ 10 và có thể dễ dàng tìm thấy trong một kính thiên văn nhỏ. Nó cũng chứa một số sao biến quang loại 45 T Tauri, các ngôi sao trẻ vẫn đang trong quá trình hình thành.
Messier 78 có cường độ thị giác là 8.3 và cách xa 1.600 năm ánh sáng.
Tinh vân đầu ngựa
Tinh vân Đầu Ngựa còn được gọi là Barnard 33, là một tinh vân tối nổi tiếng ở Orion. Nó nằm ở phía nam Alnitak, trong tinh vân phát xạ sáng IC 434. Tinh vân Đầu Ngựa cách xa khoảng 1.500 năm ánh sáng. Nó được phát hiện bởi nhà thiên văn học người Mỹ Williamina Fleming vào năm 1888.
Tinh vân Đầu Ngựa – Barnard (Ảnh: Travis Rector (NOAO)
Tinh vân có tên Đầu Ngựa vì hình dạng được hình thành bởi các đám mây và khí bụi tối, giống như đầu ngựa khi quan sát từ Trái Đất.
Vòng lặp của Barnard
Barnard’s Loop là một tinh vân phát xạ nằm trong Khu liên hợp đám mây phân tử Orion. Tinh vân có cường độ biểu kiến là 5 và cách xa hệ Mặt Trời khoảng 1.600 năm ánh sáng. Nó được cho là bắt nguồn từ vụ nổ siêu tân tinh khoảng hai triệu năm trước.
Barnard’s Loop (Ảnh: Hewholooks)
Barnard’s Loop được đặt theo tên của EE Barnard – nhà thiên văn đã chụp ảnh tinh vân và công bố vào năm 1894.
Barnard’s Loop có bán kính khoảng 150 năm ánh sáng và nó bao phủ phần lớn chòm sao Orion. Nó xuất hiện như một vòng cung lớn tập trung vào Messier 42 (Tinh vân Orion). Barnard’s Loop được cho là bị ion hóa bởi các ngôi sao nằm trong Tinh vân Orion.
The Flame Nebula (NGC 2024)
Tinh vân Ngọn Lửa (the Flame Nebula) là một tinh vân phát xạ trong Orion. Nó có cường độ thị giác là 2.0 và cách xa từ 900 đến 1.500 năm ánh sáng.
Tinh vân Ngọn Lửa – NGC 2024 (Ảnh: ESO, J. Emerson, VISTA, Đơn vị khảo sát thiên văn Cambridge)
Tinh vân Ngọn lửa được chiếu sáng bởi ánh sáng của siêu sao xanh nóng Alnitak – ngôi sao cực đông trong Orion’s Belt.
Alnitak phát ra tia cực tím vào tinh vân, đẩy các electron ra khỏi các đám mây khí Hydro bên trong tinh vân và sự phát sáng của tinh vân là kết quả của sự tái hợp electron và ion hóa.
Tinh vân Ngọn Lửa nằm trong Tổ hợp đám mây phân tử Orion.
Cụm 37 – NGC 2169
NGC 2169 là cụm sao mở, cách hệ Mặt Trời khoảng 3.600 năm ánh sáng. Nó có cường độ biểu kiến là 5.9.
Cụm 37 – NGC 2169 (Ảnh: ScottRak)
Cụm sao ban đầu được phát hiện bởi nhà thiên văn học người Ý – Jac Batista Hodierna vào giữa thế kỷ 17 và sau đó được William Herschel phát hiện vào ngày 15 tháng 10 năm 1784. Đôi khi nó còn được gọi là Cụm 37 vì nó giống với số 37.
NGC 2169 có đường kính dưới 7 phút cung và bao gồm khoảng 30 ngôi sao, chỉ tám triệu năm tuổi. Ngôi sao sáng nhất có cường độ biểu kiến là 6.94.
NGC 2023
NGC 2023 là một tinh vân phản chiếu trong chòm sao Orion. Tinh vân là một trong những nguồn sáng nhất của Hydro phân tử huỳnh quang.
NGC 2023 (Ảnh: ESA, Hubble & NASA)
Nó được thắp sáng bởi ngôi sao B HD 37903, ngôi sao sáng nhất chiếu sáng bề mặt của đám mây phân tử Lynds 1630 (Tinh vân Đầu Ngựa hay Barnard 33) và một trong những tinh vân phản chiếu lớn nhất trên bầu trời. Nó lớn 4 năm ánh sáng.
NGC 2023 có thể được tìm thấy một phần ba độ từ Tinh vân Đầu Ngựa. Nó cách Trái Đất 1467,7 năm ánh sáng.
Tinh vân đầu khỉ – NGC 2174
NGC 2174 là một tinh vân phát xạ được phân loại là vùng H II. Nó được liên kết với cụm mở NGC 2175, cũng nằm trong Orion.
Tinh vân cách xa khoảng 6.400 năm ánh sáng. Nó còn được gọi là Tinh vân Đầu Khỉ vì hình dạng khác thường của nó trong hình ảnh trường rộng.
Tinh vân Đầu Khỉ – NGC 2174 (Ảnh: ESA, Hubble, NASA)
Bình luận